Cho đến nay là một năm khó khăn, sự xác nhận quốc tế tại Việt Nam và việc chính phủ kiểm soát hiệu quả đại dịch COVID-19 cùng với việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA) gần đây đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư sản xuất và logistics trên toàn cầu.
UBS Research mô tả rằng một trong những điểm “sáng nhất” ở châu Á phải nhắc đến là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam tăng nhẹ ở mức 0,36% trong quý 2/2020, trong khi nhiều nền kinh tế giảm sút. Oxford Economics dự báo GDP của quốc gia này sẽ tăng trưởng 2,3% vào năm 2020, chậm lại từ mức 7,02% của năm ngoái, tiếp theo là mức tăng trưởng 8% vào năm 2021.
Sản xuất công nghiệp và sản xuất PMI tăng trở lại
Theo Focus Economics, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của Việt Nam đã chứng kiến sản lượng vào tháng 6 năm 2020 tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước (YoY), phần lớn là do phục hồi trong lĩnh vực chế tạo và sản xuất điện. Sản lượng công nghiệp và chế tạo ước tính tăng 2,71% vào năm 2020 (và dự kiến tăng 9,2% vào năm 2021), thể hiện mức tăng trưởng khiêm tốn nhưng đầy hứa hẹn của ngành.
Ngoài ra, chỉ số PMI sản xuất cũng tăng vọt lên 51,1 điểm vào tháng 6 năm 2020, tăng từ 42,7 điểm vào tháng 5, đánh dấu mức tăng trưởng đầu tiên trên ngưỡng 50 điểm kể từ tháng 1 sau thành công của chính phủ trong việc ngăn chặn đại dịch. Sản lượng phục hồi này được cho là do lượng đơn đặt hàng mới tăng mạnh, trong khi hoạt động thu mua cũng tăng trưởng và tồn kho trước khi sản xuất tăng cao nhất kể từ tháng 11/2018.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MOPI), trong 6 tháng đầu năm 2020, Việt Nam thu hút được 15,67 tỷ USD tổng vốn được đăng ký, tương đương 84,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, lĩnh vực sản xuất chế biến có lượng dự án FDI cấp mới lớn nhất, đạt 8 tỷ USD, chiếm 51,1% tổng vốn đăng ký cấp mới. Hơn 6 tỷ USD trong số này được rót trực tiếp vào các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất và khu kinh tế (KKT) trong cả nước, trong đó Bạc Liêu, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu và Hà Nội dẫn đầu về phần vốn cam kết.
Sự khẩn cấp của nguồn cung
Đến tháng 6 năm 2020, cả nước có 336 KCN với tổng diện tích khoảng 97.800 ha. Trong đó, 261 KCN đang hoạt động, 75 KCN đang trong quá trình giải phóng mặt bằng và xây dựng. Hơn nữa, tỷ lệ sử dụng trong các KCN đang hoạt động trên toàn quốc đạt 76%.
Với nhu cầu tiếp tục vượt cung, rõ ràng nhu cầu cung cấp nhiều hơn ở các tỉnh công nghiệp trọng điểm trên toàn quốc. Tỷ lệ sử dụng tại các trung tâm chính như Bình Dương, Đồng Nai, Long An ở phía Nam và Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Phòng ở phía Bắc, đã tăng đáng kể kể từ năm 2018.
Với làn sóng dự kiến về các nhà sản xuất rời khỏi Trung Quốc vào năm 2021 và 2022, điều quan trọng đối với các nhà phát triển là mang lại nhiều dự án sống động hơn để nắm bắt và đáp ứng các khoản đầu tư sản xuất có giá trị cao. Ví dụ, Đồng Nai quy hoạch thêm 8 khu công nghiệp. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Long Thành Võ Tấn Đức đã công bố kế hoạch xây dựng bốn khu công nghiệp mới ở Long Thành để đáp ứng nhu cầu nói trên. Xã Phước Bình sẽ có thêm 2 khu công nghiệp với quy mô lên đến 900 ha, diện tích khoảng 500 ha. Các xã Tân Hiệp và Bình An cũng sẽ có thêm một khu công nghiệp mới. Hơn nữa, các nhà phát triển chuyên cho thuê như BW Industrial Development JSC đang chạy đua để mở rộng trong thời gian này, tăng nguồn cung ban đầu của họ từ 130 ha trong năm 2018 lên gần 500 ha trong năm nay.
Cơ hội hậu covid
“Việt Nam là quốc gia đầu tiên loại trừ dịch SARS và tiếp tục là tấm gương mạnh mẽ trong công tác ngăn chặn dịch bệnh. Khi độ mức độ nhạy cảm giảm dần, các nhà sản xuất sẽ dần chuyển sang mô hình “Trung Quốc + 1”, điều này sẽ dẫn đến nhu cầu lớn hơn đối với khu vực công nghiệp Việt Nam, khi các tập đoàn tìm cách giảm thiểu rủi ro và đa dạng hóa địa điểm. ”- Troy Griffiths, Phó Giám đốc Điều hành, Savills Việt Nam.
Phản ứng nhanh chóng của chính phủ Việt Nam đối với đại dịch, bên cạnh tầng lớp trung lưu mạnh mẽ và đang gia tăng của đất nước, môi trường kinh doanh ổn định, lực lượng lao động, chi tiêu cho cơ sở hạ tầng, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và FTA gần đây, tất cả đều là những yếu tố chính để nắm bắt cơ hội sau đại dịch. Bản thân tình hình hiện tại thậm chí còn được cho là sẽ đẩy nhanh làn sóng di dời các nhà sản xuất đa quốc gia ra khỏi Trung Quốc. Đặc biệt đáng chú ý là thông báo của Apple, Pegatron và Foxconn về việc chuyển địa điểm và mở rộng sản xuất tại Việt Nam.
Gần đây, với gói kích cầu 2,2 tỷ USD, Chính phủ Nhật Bản đã tài trợ cho việc chuyển dịch sản xuất từ Trung Quốc, với 15 công ty Nhật Bản bao gồm Meiko Electronics, Nikkiso, Fujikin và Yamauchi, đăng ký chuyển sản xuất sang Việt Nam. Theo Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (Jetro), 6 trong số 15 là doanh nghiệp lớn và 9 doanh nghiệp còn lại là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Hầu hết sản xuất thiết bị y tế trong khi phần còn lại sản xuất chất bán dẫn, linh kiện điện thoại, máy điều hòa không khí và mô-đun nguồn.
Delayed transactions, future prosperity
Hầu hết các giao dịch cho thuê trong 6 tháng đầu năm 2020 bắt nguồn từ các dự án và các cuộc thảo luận đang diễn ra từ năm ngoái, trong khi nhiều hợp đồng cho thuê cũng được thực hiện từ các công ty đã hiện hữu tại Việt Nam và mong muốn mở rộng sản xuất. Quy định hạn chế đi lại đã làm giảm các yêu cầu ‘gia nhập thị trường’ mới, hoãn việc kiểm tra địa điểm từ các nhà đầu tư quốc tế quan trọng, do đó làm giảm số lượng hợp đồng cho thuê đã thực hiện với các nhà phát triển địa phương.
Mặc dù không có gì đảm bảo cho năm tới, nhưng sự phụ thuộc của khu vực công nghiệp Việt Nam vào việc tiếp tục di cư trong chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc là điều hiển nhiên khi nhiều chủ đất đang định vị cho mình một năm bận rộn và hiệu quả sau khi những quy định hạn chế đi lại này được dỡ bỏ.
Sự lạc quan từ các nhà phát triển và đất nước nói chung là điều cần thiết, theo lời của nhà sư thông thái Thích Nhất Hạnh “Hy vọng rất quan trọng vì nó có thể làm cho thời điểm hiện tại bớt khó khăn hơn. Nếu chúng ta tin rằng ngày mai sẽ tốt hơn, chúng ta có thể chịu đựng sự khó khăn của ngày hôm nay ”.
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ JCampbell@Savills.com.vn.